Cưới Hỏi Hà Nội: Những Giá Trị Truyền Thống Và Hơi Thở Thời Đại
Dù xã hội ngày nay đã có nhiều thay đổi so với trước đây, nhưng các nghi thức truyền thống trong hôn lễ như dạm ngõ, ăn hỏi, xin dâu, và đón dâu vẫn giữ nguyên, không khác gì so với hàng trăm năm trước. Những phong tục này vẫn được duy trì như một phần bản sắc văn hóa, thể hiện sự tôn trọng đối với truyền thống gia đình và xã hội.

Những luật tục xưa
Tục lệ cưới hỏi đã có từ xa xưa, nhưng đến thời vua Lê Thánh Tông, nghi lễ chính thức được đưa vào **Quốc triều Hình luật** (hay Luật Hồng Đức) – bộ luật đầu tiên của Việt Nam. Theo đó, lễ cưới hỏi bao gồm các nghi thức như lễ nghị hôn (dạm hỏi), lễ định thân (hỏi tên tuổi và tình trạng hôn nhân của cô gái), lễ nạp trưng (dẫn đồ cưới), và lễ thân nghinh (đón dâu). Tuy nghi thức là vậy, nhưng tùy thuộc vào vùng miền, gia cảnh và mối quan hệ, đám cưới có thể được tổ chức lớn hay nhỏ.
Ở Hà Nội xưa, lễ chạm ngõ không thể thiếu gói chè, chai rượu, và cơi trầu vì “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Lễ ăn hỏi diễn ra vào mùa hồng chín không thể thiếu hồng đỏ, và với gia đình khá giả, ngoài cốm và hồng còn có lợn sữa quay. Đồ lễ ăn hỏi cũng dần thay đổi theo thời gian, với bánh cốm và mứt sen là đặc sản của Hà Nội. Dù giàu hay nghèo, không thể thiếu bánh phu thê, biểu tượng của sự vẹn toàn trong hôn nhân.
Lễ đón dâu có nhiều thủ tục, người dẫn đầu đám rước thường là những người giàu có hoặc có địa vị. Tục chăng dây ở đầu làng hay đầu phố, đòi nộp tiền mới được đi qua, từng tồn tại đến đầu thế kỷ 20. Hôn lễ thường diễn ra vào buổi chiều muộn, thời điểm âm dương giao hòa. Trong lễ gia tiên, khi cô dâu chú rể làm lễ, hai họ ngồi uống nước, đọc thơ ca ngợi gia đình.
Cỗ cưới, đặc biệt trong nội thành, được chú trọng với mâm cỗ đủ 4 bát 6 đĩa, tượng trưng cho sự đầy đủ và hạnh phúc. Các món ăn cầu kỳ như gà, lợn quay, giò lụa, chả quế, xôi gấc và canh thịnh soạn như măng ninh chân giò, mọc thả nấm và chim bồ câu hầm hạt sen. Nhà khá giả còn có thêm hoa quả tráng miệng và chè kho.

Thay đổi
Cuối thế kỷ 19, khi thực dân Pháp xâm chiếm Hà Nội, đô thị này chuyển từ kiểu truyền thống sang hiện đại phương Tây, kéo theo nhiều thay đổi về quan niệm văn hóa. Với sự hình thành của giai cấp tư sản và tiểu tư sản, xã hội có sự phân chia rõ rệt, và hôn lễ cũng theo đó mà có sự phân tầng, phân biệt cao thấp, sang hèn.
Đám cưới đầu tiên ở Hà Nội sử dụng thiếp mời kèm gói chè nhỏ và hạt sen là đám cưới của con trai thứ nhà tư sản Bạch Thái Bưởi, tổ chức tại Hotel de France (nay là khu vực rạp Kim Đồng, phố Hàng Bài) vào năm 1920. Đến năm 1930, ông Bạch Thái Bưởi tiếp tục tổ chức một đám cưới mang phong cách phương Tây cho con trai du học Pháp về, lấy con gái nhà tư sản Cửu Nghi ở phố Hàng Bồ. Lần này, chú rể không mặc áo dài lam hay đeo thẻ ngà, mà diện comple, thắt cà vạt, đón dâu không còn bằng xe song mã mà bằng máy bay, lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. Người ta còn loan tin cô dâu, chú rể sẽ thả hoa giấy kèm tiền trinh từ máy bay, khiến bà con từ Hưng Yên đến Hải Phòng ngóng đợi, dù sau đó chỉ có hoa, không có tiền.
Cũng vào năm 1930, nhà Quảng Tín (119 Hàng Bông) mua xe Citroen cho thuê làm xe đón dâu, mở ra dịch vụ cưới hỏi đầu tiên ở Hà Nội. Tiếp đó, nhà Tự Vân ở phố Hàng Gai và nhà Hoa Tường ở Khâm Thiên cũng sắm xe Ford mui trần để chở cô dâu, chú rể, xe được trang trí hoa và băng lụa rực rỡ. Trong khi nhà giàu đi xe tay hoặc ô tô, các gia đình bình dân thì đi bộ đưa dâu. Từ những năm 1920 đến 1940, Hà Nội còn phổ biến tục mừng đám cưới bằng đôi câu đối, thường được các nhà Nho viết và thêu tay. Tuy nhiên, do chi phí thêu cao, người ta nghĩ ra cách cắt chữ từ vải hoặc dạ màu rồi dán lên lụa trang trí, sáng kiến này do nhà Dịu Long ở phố Hàng Gà đưa ra.
Thập niên 1930, Hà Nội bắt đầu bắt chước phong cách cưới Tây, khi chú rể trao hoa cho cô dâu, mở đầu cho nghề kết hoa cưới phát triển ở các làng Ngọc Hà và Hữu Tiệp. Hai nghệ nhân nổi tiếng nhất thời đó là ông Lê Bá Phong và Tống Văn Ngữ, dù cả hai đều không phải là phụ nữ.
Cỗ cưới không chỉ là tiệc tùng mà còn thể hiện sự phô trương của cải và mối quan hệ xã hội của gia đình. Những đám cưới sang trọng thường có quan chức, nhà văn, nhà báo đến dự, đặc biệt là nhà báo Tam Lang (tác giả của phóng sự “Tôi kéo xe”). Ông thường xuyên được mời dự cưới dù không quen chủ nhà, và thậm chí được chuẩn bị sẵn tiền mừng. Chuyện Tam Lang mừng bao nhiêu tiền sau đó trở thành đề tài bàn tán khắp phố phường, làm tăng thêm danh giá cho chủ tiệc.

Cỗ cưới cũng bắt đầu có sự thay đổi, nhiều gia đình không nhất thiết phải 6 đĩa, 4 bát, thay vào đó là những món khác nhưng không thể thiếu được thịt gà luộc và xôi gấc – 2 món biểu trưng cho sự thịnh vượng, may mắn và hạnh phúc. Nếu là đám cưới của những gia đình khá giả thì phải có quả phù tang (dùng để đựng đồ lễ) do 2 người khiêng, bên trong đựng trầu cau, lợn quay (tục này bị phê phán là phong kiến và mất hẳn vào năm 1946). Nhiều gia đình còn có rượu sâm panh với bánh săm pa, đây là 2 thứ không thể thiếu trong lễ cưới. Dù nhiếp ảnh xuất hiện ở Hà Nội từ 1865, nhưng phải đến đầu những năm 1930 mới xuất hiện chụp ảnh đám cưới và cũng chỉ những gia đình khá giả mới chụp để ghi lại sự kiện trọng đại của con cái.
Trong nửa đầu thế kỷ 20, rất nhiều người nhập cư vào Hà Nội, họ không muốn về quê tổ chức cưới hỏi vì mất thời gian và tốn kém nên đã sinh ra dịch vụ cho thuê phòng cưới và phòng tân hôn. Theo thời gian, cưới hỏi có nhiều biến đổi. Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ người ta tổ chức cưới theo phong cách “đời sống mới”, tức là không cỗ bàn, khách đến chỉ uống nước chè ăn kẹo bánh và liên hoan văn nghệ cây nhà lá vườn là xong. Năm 1975, đất nước thống nhất, đám cưới Hà Nội lại quay lại như xưa dù thiếu thốn vật chất. Ngày nay, đám cưới ở Hà Nội hiếm nhà nào tự nấu cỗ và ăn tại gia. Phần lớn là thuê khách sạn hay các phòng cưới chuyên nghiệp, nhưng tục lệ thì vẫn vậy.