Xiếc Hà Nội từ xưa đến nay
Ngày xưa, người ta gọi các trò giải trí như múa, hát, leo dây, và múa rối là “tạp kỹ” hay “tạp hỷ.” Theo thời gian, những loại hình này phát triển thành các môn nghệ thuật độc lập, trong đó có trò “leo dây múa rối.” Đến cuối thế kỷ XIX, cụm từ này được thay thế bằng “xiếc,” từ mượn của “cirque” trong tiếng Pháp.

Nhiều tài liệu cổ ghi nhận rằng vào thời nhà Lý, ở Thăng Long, “leo dây múa rối” thường xuất hiện vào các dịp đặc biệt như mừng thọ vua, Tết Nguyên đán, hay hội hè mùa xuân. Nhà Lý đã đúc tiền đồng, để người dân có thể thả vào thúng thưởng cho nghệ nhân biểu diễn. Các trò “leo dây múa rối” thực ra đã có trước nhà Lý, có thể từ thời Đinh Tiên Hoàng (968-980). Trong sách “Lĩnh Nam chích quái” có kể rằng, khi xảy ra dịch bệnh, người dân thường biểu diễn “leo dây múa rối” để thu hút ma quỷ, không cho chúng quấy nhiễu con người.
Trò “leo dây múa rối” có nhiều biến thể: người biểu diễn căng dây thừng to giữa hai cột cao, đi qua đi lại mà không có bảo hiểm. Ngoài ra còn có các màn leo lên ngọn tre, đặt tấm ván trên đỉnh rồi biểu diễn, hoặc cưỡi ngựa trên bãi đất trống với những động tác mạo hiểm như cúi người sát đất để nhặt vật thể.
Trong sách “Lịch sử tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài” (1778), thầy tu người Anh Jerome Richard mô tả các màn trình diễn đường phố ở Thăng Long. Ông kể rằng, ở các bãi đất trống, người biểu diễn thường đi dây trên tre, với kỹ năng tránh nhau rất tài tình mà không rơi.
Cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, các đoàn xiếc quốc tế từ Anh, Pháp, và Hà Lan thường xuyên đến biểu diễn. Chợ Hàng Da là địa điểm biểu diễn nổi tiếng, với các màn đu dây, xiếc thú cuốn hút công chúng. Có bà cụ lần đầu thấy hổ trong chuồng đã chắp tay vái lạy.
Những màn xiếc nước ngoài cũng đã tạo cảm hứng cho người Việt, tiêu biểu là Tạ Duy Hiển, người đã khởi xướng ngành xiếc hiện đại Việt Nam. Ông Hiển, sau khi từ bỏ nghề trồng răng, đã thành lập gánh xiếc Long Tiên vào năm 1922, với các tiết mục do người Việt biểu diễn. Gánh xiếc này nhanh chóng trở nên nổi tiếng và đi lưu diễn khắp cả nước.
Năm 1935, một nghệ sĩ của gánh Amstrong xúc phạm người Việt trong khi biểu diễn, khiến công chúng tẩy chay đoàn xiếc. Không có khán giả, đoàn xiếc này gặp khó khăn tài chính, dẫn đến việc chủ gánh tự tử. Tạ Duy Hiển đã mua lại các thiết bị và thú của họ, lập nên bộ môn xiếc thú với sân tập riêng ở phố Quần Ngựa.
Sau năm 1954, xiếc Việt Nam tiếp tục phát triển, bổ sung thêm các màn đu bay, nhào lộn, xiếc thú và biểu diễn cho công chúng tại rạp xiếc ở Công viên Thống Nhất. Ngày nay, Hà Nội vẫn là địa phương duy nhất có rạp xiếc chuyên nghiệp, nơi các tiết mục xiếc thú luôn là điểm nhấn hấp dẫn các em nhỏ.
Nguồn: Báo Hà Nội Mới